Thiên Chúa mặc khải rất ít về Đức Mẹ Maria. Thánh Kinh cũng nói rất ít về Đức Mẹ. Dù vậy qua mọi thời đại, Đức Mẹ vẫn được ca tụng nhiều hơn tất cả các thánh. Ngay cả ma quỉ cũng phải khen ngợi Đức Mẹ 1. Tuy nhiên những gì nhân loại biết về Đức Mẹ chỉ là những vinh hiển bên ngoài. Vinh quang ấy không sánh được với vinh quang ẩn dấu trong nội tâm của Người. Vì Đức Maria là Mẹ Ẩn Dấu, Đấng cực kỳ khiêm nhường ẩn tích, nên vinh hiển và lịch sử của Đức Mẹ là một huyền nhiệm chỉ Thiên Chúa biết mà thôi. Chúa Cha gom tất cả mọi sự tốt lành trong vũ trụ, kể cả Con duy nhất của Người, đặt vào một nhân vật có danh xưng là Maria. Vì vậy các thánh gọi Đức Maria là “Kho Tàng Thiên Chúa” (Thesaurus Domini), nơi chất chứa mọi ơn phúc giúp nhân loại giầu có.
Theo thời gian, mỗi khi tín hữu Kitô chứng nghiệm được một chút huyền nhiệm nào về Đức Mẹ, họ bèn gom chút hiểu biết ấy vào một tước hiệu. Những tước hiệu này không phải là những lời ca tụng của chữ nghĩa, nhưng là những khám phá bí nhiệm trong vực sâu khôn ngoan của con người. Tuy vậy chẳng có tước hiệu nào một mình mang trọn vẹn ý nghĩa về ngôi vị của Đức Mẹ, vì vậy Đức Mẹ có rất nhiều tước hiệu.
Trong số những tước hiệu ấy, tước hiệu Theotokos (Mẹ Thiên Chúa) là một chứng nghiệm kỳ đặc. Tước hiệu này cổ nhất và gây ra nhiều sóng gió nhất trong lịch sử Giáo Hội. Cho đến hôm nay các anh chị em Tin lành, và không ít tín hữu Công Giáo, vẫn thấy hoang mang với khái niệm Đức Maria là mẹ Đức Chúa Trời. Họ cho rằng Thiên Chúa là Đấng tự hữu nên không thể được sinh ra bởi bất cứ ai. Quả thật Theotokos là danh hiệu đã tạo nên biết bao nhiêu tranh cãi về những nan đề thần học. Nhưng cũng từ những nan đề ấy mà thần học nhận ra Theotokos hàm chứa cả một kho tàng vĩ đại về mầu nhiệm Thiên Chúa.
Theo thời gian, mỗi khi tín hữu Kitô chứng nghiệm được một chút huyền nhiệm nào về Đức Mẹ, họ bèn gom chút hiểu biết ấy vào một tước hiệu. Những tước hiệu này không phải là những lời ca tụng của chữ nghĩa, nhưng là những khám phá bí nhiệm trong vực sâu khôn ngoan của con người. Tuy vậy chẳng có tước hiệu nào một mình mang trọn vẹn ý nghĩa về ngôi vị của Đức Mẹ, vì vậy Đức Mẹ có rất nhiều tước hiệu.
Trong số những tước hiệu ấy, tước hiệu Theotokos (Mẹ Thiên Chúa) là một chứng nghiệm kỳ đặc. Tước hiệu này cổ nhất và gây ra nhiều sóng gió nhất trong lịch sử Giáo Hội. Cho đến hôm nay các anh chị em Tin lành, và không ít tín hữu Công Giáo, vẫn thấy hoang mang với khái niệm Đức Maria là mẹ Đức Chúa Trời. Họ cho rằng Thiên Chúa là Đấng tự hữu nên không thể được sinh ra bởi bất cứ ai. Quả thật Theotokos là danh hiệu đã tạo nên biết bao nhiêu tranh cãi về những nan đề thần học. Nhưng cũng từ những nan đề ấy mà thần học nhận ra Theotokos hàm chứa cả một kho tàng vĩ đại về mầu nhiệm Thiên Chúa.

Sơ Lược Lịch Sử Của Tước Hiệu Theotokos
Khởi đầu từ thế kỷ II với Giáo hội Đông Phương, đặc biệt là ở vùng Alexandria và những miền xung quanh, Kitô hữu ở những nơi đó đã tuyên xưng Đức Maria là đấng Theotokos. Theo tiếng Hy Lạp, ngôn ngữ chính của giáo hội Đông Phương, Theotokos có nghĩa là “Người cưu mang Thiên Chúa”. Danh xưng này lan rộng tới giáo hội Tây Phương. Giáo hội Tây Phương đã dịch Theotokos là “Mater Dei” (Mẹ Thiên Chúa). Qua đến thế kỷ IV, Theotokos, với nghĩa “Mẹ Thiên Chúa”, từ Tây Phương được truyền ngược trở lại giáo hội Đông Phương. Tại đây danh xưng Mẹ Thiên Chúa được hân hoan chấp nhận. Tuy nhiên không phải tất cả các giáo phụ Chính Thống giáo đều hiểu như vậy. Người chống đối mạnh mẽ nhất là Nestorius, giám mục Constantinople. Ông cho rằng nói như vậy là phạm thượng, vì Thiên Chúa là Đấng sinh ra muôn loài nên không thể được sinh ra bởi một người thụ tạo. Theo ông, Đức Maria nên gọi là Christotokos (Đấng sinh ra Đức Kitô), chứ không thể là Theotokos (Mẹ Thiên Chúa).
Cuộc tranh luận giữa giám mục Nestorius và các giám mục khác cuối cùng kết thúc bởi Công Đồng Êphêsô vào năm 431. Tại đây tước hiệu Theotokos với nghĩa “Mẹ Thiên Chúa” trở thành tín điều với những khẳng định hết sức cứng rắn: “Nếu ai không tin Đấng Emmanuel thật sự là Thiên Chúa, và do đó thánh nữ đồng trinh Maria là Mẹ Thiên Chúa, kẻ đó bị phạt vạ tuyệt thông”. Tước hiệu Theotokos được tái khẳng định lần thứ hai tại Công Đồng Chalcedon vào năm 451.
Khởi đầu từ thế kỷ II với Giáo hội Đông Phương, đặc biệt là ở vùng Alexandria và những miền xung quanh, Kitô hữu ở những nơi đó đã tuyên xưng Đức Maria là đấng Theotokos. Theo tiếng Hy Lạp, ngôn ngữ chính của giáo hội Đông Phương, Theotokos có nghĩa là “Người cưu mang Thiên Chúa”. Danh xưng này lan rộng tới giáo hội Tây Phương. Giáo hội Tây Phương đã dịch Theotokos là “Mater Dei” (Mẹ Thiên Chúa). Qua đến thế kỷ IV, Theotokos, với nghĩa “Mẹ Thiên Chúa”, từ Tây Phương được truyền ngược trở lại giáo hội Đông Phương. Tại đây danh xưng Mẹ Thiên Chúa được hân hoan chấp nhận. Tuy nhiên không phải tất cả các giáo phụ Chính Thống giáo đều hiểu như vậy. Người chống đối mạnh mẽ nhất là Nestorius, giám mục Constantinople. Ông cho rằng nói như vậy là phạm thượng, vì Thiên Chúa là Đấng sinh ra muôn loài nên không thể được sinh ra bởi một người thụ tạo. Theo ông, Đức Maria nên gọi là Christotokos (Đấng sinh ra Đức Kitô), chứ không thể là Theotokos (Mẹ Thiên Chúa).
Cuộc tranh luận giữa giám mục Nestorius và các giám mục khác cuối cùng kết thúc bởi Công Đồng Êphêsô vào năm 431. Tại đây tước hiệu Theotokos với nghĩa “Mẹ Thiên Chúa” trở thành tín điều với những khẳng định hết sức cứng rắn: “Nếu ai không tin Đấng Emmanuel thật sự là Thiên Chúa, và do đó thánh nữ đồng trinh Maria là Mẹ Thiên Chúa, kẻ đó bị phạt vạ tuyệt thông”. Tước hiệu Theotokos được tái khẳng định lần thứ hai tại Công Đồng Chalcedon vào năm 451.
Những Mầu Nhiệm Tiếp Theo Tước Hiệu Theotokos
Thần học nhận ra ngay danh xưng “Mẹ Thiên Chúa” cần có những giải thích đi kèm. Cho đến ngày nay, nhiều Kitô hữu vẫn hiểu lầm rằng Công Giáo giảng dậy “Mẹ Thiên Chúa” là mẹ Đức Chúa Cha hằng hữu, vì vậy họ, và kể cả Giám mục Nestorius, bị hoang mang. Thánh Athanasius thành Alexandria nói rõ hơn, "Khi nhập thế làm người, chỉ có Ngôi Lời được sinh ra bởi Đức Maria.” Chúng ta có thể thấy rõ hơn vấn đề này qua những mầu nhiệm được thần học khai mở từ tước hiệu Theotokos. Tôi xin trình bày sau đây theo thứ tự niên đại:
Thần học nhận ra ngay danh xưng “Mẹ Thiên Chúa” cần có những giải thích đi kèm. Cho đến ngày nay, nhiều Kitô hữu vẫn hiểu lầm rằng Công Giáo giảng dậy “Mẹ Thiên Chúa” là mẹ Đức Chúa Cha hằng hữu, vì vậy họ, và kể cả Giám mục Nestorius, bị hoang mang. Thánh Athanasius thành Alexandria nói rõ hơn, "Khi nhập thế làm người, chỉ có Ngôi Lời được sinh ra bởi Đức Maria.” Chúng ta có thể thấy rõ hơn vấn đề này qua những mầu nhiệm được thần học khai mở từ tước hiệu Theotokos. Tôi xin trình bày sau đây theo thứ tự niên đại:
Đức Giêsu Với Hai Bản Tính Không Thể Tách Rời
Danh xưng Theotokos đã làm sáng tỏ tín lý Đức Giêsu có bản tính kép Thiên-Chúa-người không thể tách biệt. Theotokos không có nghĩa là Đức Maria sinh ra bản tính Thiên Chúa của Đức Giêsu. Nhưng tuy chỉ sinh ra thể xác Đức Giêsu, Người vẫn là Mẹ Thiên Chúa, vì hai bản tính của Đức Giêsu không tách rời. Nếu không chấp nhận Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa thì có khác gì nói Đức Giêsu không phải là Thiên Chúa.
Tín lý “Mẹ Thiên Chúa” được xây dựng trên nền tảng Thánh Kinh. Chính tiên tri Isaia đã thông báo cho dân chúng biết Đấng Emmanuel (Thiên Chúa ở cùng loài người) sẽ đến với dân Người. Đức Maria sinh ra đấng Emmanuel, nên Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa. Bà Êlizabét cũng đã nhận ra Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa, trước khi Đấng Emmanuel được sanh ra, với lời chào, “Bởi đâu tôi được Mẹ Thiên Chúa đến thăm tôi” (Luc 1:43). Quan điểm của Nestorius là sai vì ông cho rằng Đức Giêsu là hai người tách biệt với hai bản tính khác nhau. Nếu thế cuộc khổ nạn của Đức Giêsu sẽ trở thành vô nghĩa vì chỉ có người phàm Giêsu chịu nạn còn Chúa Giêsu không liên hệ gì đến cuộc hiến tế. Sự kiện vô can này này sẽ khiến mầu nhiệm nhập thế trở nên không cần thiết và ơn cứu độ trở nên huyền hoặc.
Danh xưng Theotokos đã làm sáng tỏ tín lý Đức Giêsu có bản tính kép Thiên-Chúa-người không thể tách biệt. Theotokos không có nghĩa là Đức Maria sinh ra bản tính Thiên Chúa của Đức Giêsu. Nhưng tuy chỉ sinh ra thể xác Đức Giêsu, Người vẫn là Mẹ Thiên Chúa, vì hai bản tính của Đức Giêsu không tách rời. Nếu không chấp nhận Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa thì có khác gì nói Đức Giêsu không phải là Thiên Chúa.
Tín lý “Mẹ Thiên Chúa” được xây dựng trên nền tảng Thánh Kinh. Chính tiên tri Isaia đã thông báo cho dân chúng biết Đấng Emmanuel (Thiên Chúa ở cùng loài người) sẽ đến với dân Người. Đức Maria sinh ra đấng Emmanuel, nên Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa. Bà Êlizabét cũng đã nhận ra Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa, trước khi Đấng Emmanuel được sanh ra, với lời chào, “Bởi đâu tôi được Mẹ Thiên Chúa đến thăm tôi” (Luc 1:43). Quan điểm của Nestorius là sai vì ông cho rằng Đức Giêsu là hai người tách biệt với hai bản tính khác nhau. Nếu thế cuộc khổ nạn của Đức Giêsu sẽ trở thành vô nghĩa vì chỉ có người phàm Giêsu chịu nạn còn Chúa Giêsu không liên hệ gì đến cuộc hiến tế. Sự kiện vô can này này sẽ khiến mầu nhiệm nhập thế trở nên không cần thiết và ơn cứu độ trở nên huyền hoặc.

Đức Maria Là Đấng Trọn Đời Đồng Trinh
Theo thánh Ambrose và thánh Augustine, Đấng Theotokos đã được Thiên Chúa đặt trong chương trình cứu độ từ thuở ban đầu. Trong vườn Eden Thiên Chúa đã mạc khải cho Adam biết điều này trước khi Adam có con cái. Như vậy Đức Giêsu được sinh ra không do bởi con cái Adam nhưng do bởi hoạch định của Thiên Chúa qua Mẹ Maria. Nền tảng thánh kinh của niềm tin này là dẫn chứng của thánh Matthêu và thánh Luca cho biết Đức Maria chịu thai bởi phép Đức Chúa Thánh Thần (Mt 1:18; Lc1:35).
Theo luận cứ thần học, vì Đức Giêsu là Thiên Chúa, Đấng tuyệt đối không có tội lỗi, vậy Người không thể là con của một nam nhân tội lỗi. Vì Đức Maria không mang thai qua kết hợp phàm nhân, vậy Người vẫn còn đồng trinh. Yếu tố đồng trinh được nhấn mạnh không phải vì những giá trị trần thế, nhưng để làm sáng tỏ công trình của Thiên Chúa. Đức Giêsu là Đấng đến từ Thiên Chúa để mặc lấy nhân tính. Để phần nào hình dung mầu nhiệm đồng trinh chúng ta có thể mường tượng Đức Giêsu đi vào cung lòng Đức Maria cũng như cách Người đi vào phòng họp của các Tông Đồ. Mặc dù cửa phòng vẫn đóng kín và khóa kỹ, Chúa Giêsu vẫn vào được mà cửa và tường vách không hề bị hư hại. Sâu xa hơn, thánh Anathasius đã dùng danh hiệu “trọn đời đồng trinh” (ever virgin) để biểu lộ mạc khải đồng trinh. Sau đó danh hiệu Đức Maria là Đấng Trọn Đời Đồng Trinh trở thành tín điều bởi Công Đồng Lateran vào năm 649.
Theo thánh Ambrose và thánh Augustine, Đấng Theotokos đã được Thiên Chúa đặt trong chương trình cứu độ từ thuở ban đầu. Trong vườn Eden Thiên Chúa đã mạc khải cho Adam biết điều này trước khi Adam có con cái. Như vậy Đức Giêsu được sinh ra không do bởi con cái Adam nhưng do bởi hoạch định của Thiên Chúa qua Mẹ Maria. Nền tảng thánh kinh của niềm tin này là dẫn chứng của thánh Matthêu và thánh Luca cho biết Đức Maria chịu thai bởi phép Đức Chúa Thánh Thần (Mt 1:18; Lc1:35).
Theo luận cứ thần học, vì Đức Giêsu là Thiên Chúa, Đấng tuyệt đối không có tội lỗi, vậy Người không thể là con của một nam nhân tội lỗi. Vì Đức Maria không mang thai qua kết hợp phàm nhân, vậy Người vẫn còn đồng trinh. Yếu tố đồng trinh được nhấn mạnh không phải vì những giá trị trần thế, nhưng để làm sáng tỏ công trình của Thiên Chúa. Đức Giêsu là Đấng đến từ Thiên Chúa để mặc lấy nhân tính. Để phần nào hình dung mầu nhiệm đồng trinh chúng ta có thể mường tượng Đức Giêsu đi vào cung lòng Đức Maria cũng như cách Người đi vào phòng họp của các Tông Đồ. Mặc dù cửa phòng vẫn đóng kín và khóa kỹ, Chúa Giêsu vẫn vào được mà cửa và tường vách không hề bị hư hại. Sâu xa hơn, thánh Anathasius đã dùng danh hiệu “trọn đời đồng trinh” (ever virgin) để biểu lộ mạc khải đồng trinh. Sau đó danh hiệu Đức Maria là Đấng Trọn Đời Đồng Trinh trở thành tín điều bởi Công Đồng Lateran vào năm 649.
Đức Maria Là Đấng Vô Nhiễm Nguyên Tội
Nếu Đức Maria là Theotokos, tức Mẹ Đấng Cứu Chuộc, Người phải được hưởng thành quả đầu tiên của ơn cứu chuộc. Đức Maria không mắc nguyên tội. Không phải nguyên tội của Người được cất bỏ sau lễ rửa tội, nhưng được hoàn toàn miễn trừ ngay từ lúc Người tượng thai trong lòng mẹ. Hơn thế nữa thần học suy ra cả cuộc đời Đức Maria cũng không hề mắc một tội lỗi nào dù là tội nhỏ. Điều này không có nghĩa là Mẹ Maria không bị kẻ thù Satan đánh phá và hãm hại. Thực tế Người bị rất nhiều đau khổ bởi Satan. Bằng chứng về ơn vô nhiễm nguyên tội có thể tìm thấy trong sách Khởi Nguyên đoạn 3 câu 15. Thiên Chúa báo trước sẽ gửi Đấng Cứu Độ đến và Người đặt mối thù giữa Satan và người đàn bà, mẹ của Đấng Cứu Độ. Bà sẽ đạp đầu con rắn Satan dưới chân. Người mẹ của Đấng Cứu Độ chính là Mẹ Maria.
Luận cứ thần học bắt buộc phải nhận ra chỉ có Đấng Vô nhiễm Nguyên Tội và cũng không hề mắc tội mới có quyền lực vượt trên Satan và diệt được Satan. Sách Diệu Ca cũng nói, “Toàn thân người mỹ miều, người yêu ơi, nơi người không chút tì vết” (DC 4:7). Đoạn này nói về Mẹ Thiên Chúa, Đấng vô cùng thanh sạch. Chỉ riêng Đức Maria mới có vị thế “đầy ơn phúc” đúng như vậy (Lc 1:28 ). Mầu nhiệm này Giáo Hội đã nghiệm ra từ lâu, bằng chứng là vào năm 1826 dòng tu Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội đã được thành lập. Năm 1854 Giáo Hoàng Piô IX chính thức tuyên bố Đức Maria là Đấng Vô nhiễm Nguyên Tội. Bốn năm sau, năm 1858, Đức Mẹ hiện ra tại Lourdes với Bernadette, Mẹ đã xưng “Ta là Nữ Vương Vô Nhiễm Nguyên Tội”. Đây là một bằng chứng về Chúa Thánh Thần đã hướng dẫn Giáo Hội trong những nhận thức về Đức Mẹ.
Nếu Đức Maria là Theotokos, tức Mẹ Đấng Cứu Chuộc, Người phải được hưởng thành quả đầu tiên của ơn cứu chuộc. Đức Maria không mắc nguyên tội. Không phải nguyên tội của Người được cất bỏ sau lễ rửa tội, nhưng được hoàn toàn miễn trừ ngay từ lúc Người tượng thai trong lòng mẹ. Hơn thế nữa thần học suy ra cả cuộc đời Đức Maria cũng không hề mắc một tội lỗi nào dù là tội nhỏ. Điều này không có nghĩa là Mẹ Maria không bị kẻ thù Satan đánh phá và hãm hại. Thực tế Người bị rất nhiều đau khổ bởi Satan. Bằng chứng về ơn vô nhiễm nguyên tội có thể tìm thấy trong sách Khởi Nguyên đoạn 3 câu 15. Thiên Chúa báo trước sẽ gửi Đấng Cứu Độ đến và Người đặt mối thù giữa Satan và người đàn bà, mẹ của Đấng Cứu Độ. Bà sẽ đạp đầu con rắn Satan dưới chân. Người mẹ của Đấng Cứu Độ chính là Mẹ Maria.
Luận cứ thần học bắt buộc phải nhận ra chỉ có Đấng Vô nhiễm Nguyên Tội và cũng không hề mắc tội mới có quyền lực vượt trên Satan và diệt được Satan. Sách Diệu Ca cũng nói, “Toàn thân người mỹ miều, người yêu ơi, nơi người không chút tì vết” (DC 4:7). Đoạn này nói về Mẹ Thiên Chúa, Đấng vô cùng thanh sạch. Chỉ riêng Đức Maria mới có vị thế “đầy ơn phúc” đúng như vậy (Lc 1:28 ). Mầu nhiệm này Giáo Hội đã nghiệm ra từ lâu, bằng chứng là vào năm 1826 dòng tu Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội đã được thành lập. Năm 1854 Giáo Hoàng Piô IX chính thức tuyên bố Đức Maria là Đấng Vô nhiễm Nguyên Tội. Bốn năm sau, năm 1858, Đức Mẹ hiện ra tại Lourdes với Bernadette, Mẹ đã xưng “Ta là Nữ Vương Vô Nhiễm Nguyên Tội”. Đây là một bằng chứng về Chúa Thánh Thần đã hướng dẫn Giáo Hội trong những nhận thức về Đức Mẹ.

Đức Maria Hồn Xác Lên Trời
Mầu nhiệm tổng hợp của tín điều Theotokos là mạc khải Đức Maria hồn xác lên trời. Mầu nhiệm này là dấu chỉ về ơn cứu độ mà Đức Maria là khuôn mẫu chính. Nếu Đức Maria vô nhiễm nguyên tội và vô tội, xác người không thể bị sự chết hủy hoại, vì sự chết chỉ xảy ra cho những kẻ có tội (Rm 5:12). Năm 1950, Giáo Hoàng Piô XII công bố Đức Mẹ hồn xác lên trời là một tín điều.
Trước biến cố này, giáo phái Tin Lành cho rằng Công Giáo đã đi đến mức tận cùng của lòng sùng kính Đức Maria, nhưng lại đào sâu hố chia rẽ giữa Công Giáo và Tin Lành. Sự kiện Đức Mẹ hồn xác lên trời không thấy ghi chú trong Thánh Kinh. Giáo hội Tin Lành vin vào đó để chống đối. Scott Hahn đặt vấn đề với tín hữu Tin Lành: nếu cho rằng không có sử liệu thì không có bằng cớ, vậy “trong lịch sử Giáo Hội đâu thấy có chỗ nào nói đến ngôi mộ và việc tôn kính hài cốt Đức Maria”.2 Câu nói của Hahn chỉ là một nhận xét chứ không thể coi là một bằng chứng xác thực, tuy nhiên luận cứ của ông cũng đáng để suy nghĩ.
Giáo hội Đông Phương đưa ra chứng cớ rằng Đức Maria được thánh Gioan rước về sống ở Êphêsô. Tại đây khi Đức Maria mãn phần, Người chìm vào giấc ngủ (dormition), rồi trong giấc ngủ Người được đưa về trời. Truyền thống đức tin này đã có từ các thánh Tông Đồ rồi truyền đến giáo dân. Thánh Gioan thành Damascus cho biết vào năm 451 Hoàng đế Marcian muốn lưu giữ xác của “Mẹ Thiên Chúa”. Thánh Juvenal, Giám mục Jerusalem tâu với vua rằng Đức Maria đã chết trước sự chứng kiến của các Tông Đồ chỉ thiếu thánh Tôma. Khi thánh Tôma về tới ông yêu cầu mở nắp mồ ra để ông viếng xác. Khi mồ mở ra thì không thấy xác Đức Maria đâu nữa. Các thánh Tông Đồ tin rằng xác Đức Maria đã được cất về trời. Một truyền thống khác cho rằng hình ảnh nói trong sách Khải Huyền về “một bà phủ bởi mặt trời, chân trên mặt trăng, đầu đôi triều thiên mười hai sao” (KH 12:1-6) chính là Đức Maria sau khi mãn phần.
Đối với thần học, Đức Mẹ cả hồn lẫn xác lên Thiên Đàng là một công thức tự chứng. Có nghĩa là tín lý này có giá trị xác thực tự chính nó không cần bằng chứng hỗ trợ. Tuy nhiên ý nghĩa của tín điều này chỉ có thể hiểu được khi liên kết tất cả các mầu nhiệm liên hệ với danh hiệu Theotokos.
Đức mẹ chết hay ngủ? Công Giáo Tây Phương bỏ ngỏ ẩn số này. Trong lịch sử đã có hai ông Enoch và Elijah được biết là không hề chết nhưng lên trời ngay khi còn đang sống (KN 5:18-24; 2V 2:1-12). Tuy nhiên Chúa Giêsu đã chết rồi mới sống lại. Công Giáo cẩn thận dùng thuật ngữ Assumption (Mông Triệu) để nói về Đức Maria được Thiên Chúa ban cho lên trời và thuật ngữ Ascension (Thăng Thiên) để nói về Đức Giêsu tự mình lên trời.
Mầu nhiệm tổng hợp của tín điều Theotokos là mạc khải Đức Maria hồn xác lên trời. Mầu nhiệm này là dấu chỉ về ơn cứu độ mà Đức Maria là khuôn mẫu chính. Nếu Đức Maria vô nhiễm nguyên tội và vô tội, xác người không thể bị sự chết hủy hoại, vì sự chết chỉ xảy ra cho những kẻ có tội (Rm 5:12). Năm 1950, Giáo Hoàng Piô XII công bố Đức Mẹ hồn xác lên trời là một tín điều.
Trước biến cố này, giáo phái Tin Lành cho rằng Công Giáo đã đi đến mức tận cùng của lòng sùng kính Đức Maria, nhưng lại đào sâu hố chia rẽ giữa Công Giáo và Tin Lành. Sự kiện Đức Mẹ hồn xác lên trời không thấy ghi chú trong Thánh Kinh. Giáo hội Tin Lành vin vào đó để chống đối. Scott Hahn đặt vấn đề với tín hữu Tin Lành: nếu cho rằng không có sử liệu thì không có bằng cớ, vậy “trong lịch sử Giáo Hội đâu thấy có chỗ nào nói đến ngôi mộ và việc tôn kính hài cốt Đức Maria”.2 Câu nói của Hahn chỉ là một nhận xét chứ không thể coi là một bằng chứng xác thực, tuy nhiên luận cứ của ông cũng đáng để suy nghĩ.
Giáo hội Đông Phương đưa ra chứng cớ rằng Đức Maria được thánh Gioan rước về sống ở Êphêsô. Tại đây khi Đức Maria mãn phần, Người chìm vào giấc ngủ (dormition), rồi trong giấc ngủ Người được đưa về trời. Truyền thống đức tin này đã có từ các thánh Tông Đồ rồi truyền đến giáo dân. Thánh Gioan thành Damascus cho biết vào năm 451 Hoàng đế Marcian muốn lưu giữ xác của “Mẹ Thiên Chúa”. Thánh Juvenal, Giám mục Jerusalem tâu với vua rằng Đức Maria đã chết trước sự chứng kiến của các Tông Đồ chỉ thiếu thánh Tôma. Khi thánh Tôma về tới ông yêu cầu mở nắp mồ ra để ông viếng xác. Khi mồ mở ra thì không thấy xác Đức Maria đâu nữa. Các thánh Tông Đồ tin rằng xác Đức Maria đã được cất về trời. Một truyền thống khác cho rằng hình ảnh nói trong sách Khải Huyền về “một bà phủ bởi mặt trời, chân trên mặt trăng, đầu đôi triều thiên mười hai sao” (KH 12:1-6) chính là Đức Maria sau khi mãn phần.
Đối với thần học, Đức Mẹ cả hồn lẫn xác lên Thiên Đàng là một công thức tự chứng. Có nghĩa là tín lý này có giá trị xác thực tự chính nó không cần bằng chứng hỗ trợ. Tuy nhiên ý nghĩa của tín điều này chỉ có thể hiểu được khi liên kết tất cả các mầu nhiệm liên hệ với danh hiệu Theotokos.
Đức mẹ chết hay ngủ? Công Giáo Tây Phương bỏ ngỏ ẩn số này. Trong lịch sử đã có hai ông Enoch và Elijah được biết là không hề chết nhưng lên trời ngay khi còn đang sống (KN 5:18-24; 2V 2:1-12). Tuy nhiên Chúa Giêsu đã chết rồi mới sống lại. Công Giáo cẩn thận dùng thuật ngữ Assumption (Mông Triệu) để nói về Đức Maria được Thiên Chúa ban cho lên trời và thuật ngữ Ascension (Thăng Thiên) để nói về Đức Giêsu tự mình lên trời.
Đức Maria Là Mẹ Giáo Hội Và Là Mẹ các Tín Hữu
Trên Thập Giá Đức Giêsu đã trối thánh Gioan cho Đức Mẹ, “Thưa Bà, đây là con Bà” (Ga 19:26-27). Thánh Gioan là đại diện của các thánh Tông Đồ vào lúc ấy. Như vậy Đức Giêsu đã thành lập mối liên hệ mẫu tử giữa Đức Maria và các Tông Đồ, tức Giáo Hội. Mầu nhiệm này đã được đúc kết bởi Giáo Hoàng Phaolô VI, vào cuối thời Công Đồng Vatican II năm 1964, ngài tuyên bố: “Đức Maria là mẹ Chúa Kitô và cũng là mẹ Giáo Hội.”
Thần học gia Alexis Kniazev luận rằng tự thân Đức Maria đã là dạng nguyên gốc về sự hiện hữu của Giáo Hội, vì Người là Mẹ Chúa Kitô mà Giáo Hội là nhiệm thể của Chúa Kitô, và là đền thờ của Chúa Thánh Thần. Thánh Clement và thánh Ambrôsiô cũng nói có sự liên kết chặt chẽ giữa Mẹ và Chúa Thánh Thần trong việc nuôi dưỡng Giáo Hội. Vì Mẹ Maria là Mẹ Giáo Hội, nên cũng là mẹ các giáo hữu.3
Trên Thập Giá Đức Giêsu đã trối thánh Gioan cho Đức Mẹ, “Thưa Bà, đây là con Bà” (Ga 19:26-27). Thánh Gioan là đại diện của các thánh Tông Đồ vào lúc ấy. Như vậy Đức Giêsu đã thành lập mối liên hệ mẫu tử giữa Đức Maria và các Tông Đồ, tức Giáo Hội. Mầu nhiệm này đã được đúc kết bởi Giáo Hoàng Phaolô VI, vào cuối thời Công Đồng Vatican II năm 1964, ngài tuyên bố: “Đức Maria là mẹ Chúa Kitô và cũng là mẹ Giáo Hội.”
Thần học gia Alexis Kniazev luận rằng tự thân Đức Maria đã là dạng nguyên gốc về sự hiện hữu của Giáo Hội, vì Người là Mẹ Chúa Kitô mà Giáo Hội là nhiệm thể của Chúa Kitô, và là đền thờ của Chúa Thánh Thần. Thánh Clement và thánh Ambrôsiô cũng nói có sự liên kết chặt chẽ giữa Mẹ và Chúa Thánh Thần trong việc nuôi dưỡng Giáo Hội. Vì Mẹ Maria là Mẹ Giáo Hội, nên cũng là mẹ các giáo hữu.3

Đức Maria Là Eva Mới Và Là Mẹ Nhân Loại
Khi danh xưng Theotokos được chính thức công nhận, các Kitô hữu sơ khai đã nhận ra sự liên hệ giữa Đức Maria và bà Eva. Giáo phụ đầu tiên so sánh Mẹ Maria với Eva là thánh Irenaenus, Giám mục Lyons, vào năm 150. Thánh giảng rằng Eva thứ nhất mang lại sự chết cho con người, nhưng Mẹ Maria mang lại sự sống cho con người. Vì vậy Mẹ Maria là Eva mới vì Mẹ mang lại một kỷ nguyên giao ước mới. Từ đó các giáo phụ sơ khai đều chấp nhận lối nhìn của thánh Irenaenus.
Nếu phân tích kỹ hơn chúng ta sẽ thấy, Đức Giêsu là Ngôi Con của Ngôi Cha xuống thế làm người. Qua Ngôi Con chúng ta cũng được ban ơn trở thành con Thiên Chúa (GLCG 645). Một khuynh hướng thần học cho rằng Đức Maria là Mẹ của Ngôi Con và cũng là Mẹ của chúng ta nên Ngôi con là Anh của chúng ta. Những ai không quen với danh xưng Đức Giêsu là “Anh”, có lẽ sẽ dễ dàng chấp nhận lời giảng của thánh Phaolô và thánh Augustine: “Tất cả chúng ta là một trong Đức Giêsu” (Rm 12:5). Điều này xảy ra khi chúng ta nhận phép rửa (I Gio 3:1). Ngay lúc ấy Đức Maria là Mẹ của chúng ta và là Eva mới, nên cũng là mẹ loài người (GLCG 726). Giáo Hoàng Leo Cả (440-461) đã vắn tắt mầu nhiệm này như sau: “Đây là ơn vượt khỏi mọi ơn: Thiên Chúa gọi con người là con, và con người gọi Thiên Chúa là Cha”. Năm 1532, Đức Mẹ hiện ra với thánh Juan Diego tại Guadalupe, Mẹ đã nói với Diego: “Hỡi con nhỏ bé, Ta không phải là Mẹ con sao, đừng sợ hãi”. Như vậy Đức Mẹ đã công nhận Người là Mẹ nhân loại. Đức Mẹ cũng xác nhận với Diego: “Ta là Đấng Trọn Đời Đồng Trinh”.
Bài này chỉ nói đến những mô thức liên hệ đến tín điều Theotokos. Trên thực tế dù Mẹ là Đấng “Alma Mater” (Mẹ Ẩn Kín) Mẹ vẫn được nhận diện qua hằng ngàn danh xưng. Mỗi danh xưng là một mô thức riêng biệt về Mẹ và còn tiếp tục được tỏ lộ theo dòng thời gian. Thánh Louis De Montfort nói “về Mẹ Maria không bao giờ nói hết” (De Maria numquam satis).4 Chúng ta hãy chiêm niệm một vài danh hiệu để thấy rõ điều này, Mẹ là “Đức Bà Hằng Cứu Giúp”, Mẹ là “Nữ Vương Các Thánh Tử Đạo”, Mẹ là “Đấng Đồng Công Cứu Chuộc”… Duyệt xét từng danh hiệu, tất cả đều có nền tảng từ Kitô học (Christology). Nói cách khác, mọi mầu nhiệm của Mẹ Maria đều rút ra từ mầu nhiệm Chúa Giêsu. Thánh Maximiliano Kolbe nói, “Ở đâu có Mẹ thì có cả Chúa ba ngôi”.
Những biến cố xoay quanh tước hiệu Theotokos cho chúng ta thấy chỉ có Giáo Hội là nơi độc nhất biết ca ngợi Đức Mẹ một cách thích hợp, vì giáo hội có đủ tư cách dâng lên Người những lời do chính Thiên Chúa mặc khải cho biết. Cho đến nay lòng sùng kính Đức Mẹ đã là động lực phát sinh ra những dòng tư tưởng mới. Rất nhiều tu viện, trường đại học, Giáo Hoàng, hội đoàn, tu sĩ, và cá nhân đã nhận Đức Mẹ làm đấng bảo trợ. Các cuộc hiện ra của Đức Mẹ từ thế kỷ XIII đến nay như những ấn dấu chứng thực những tín điều về mầu nhiệm Theotokos là chân lý. Có thể nói ngắn gọn Theotokos là sức mạnh không thể thiếu của Giáo Hội Công Giáo và của đời sống các tín hữu. Kitô hữu chúng ta càng sùng kính Đức Mẹ bao nhiêu, chúng ta càng gần với Thiên Chúa bấy nhiêu vì Đức Mẹ mang chúng ta đến với Thiên Chúa.
Đỗ Trân Duy
Khi danh xưng Theotokos được chính thức công nhận, các Kitô hữu sơ khai đã nhận ra sự liên hệ giữa Đức Maria và bà Eva. Giáo phụ đầu tiên so sánh Mẹ Maria với Eva là thánh Irenaenus, Giám mục Lyons, vào năm 150. Thánh giảng rằng Eva thứ nhất mang lại sự chết cho con người, nhưng Mẹ Maria mang lại sự sống cho con người. Vì vậy Mẹ Maria là Eva mới vì Mẹ mang lại một kỷ nguyên giao ước mới. Từ đó các giáo phụ sơ khai đều chấp nhận lối nhìn của thánh Irenaenus.
Nếu phân tích kỹ hơn chúng ta sẽ thấy, Đức Giêsu là Ngôi Con của Ngôi Cha xuống thế làm người. Qua Ngôi Con chúng ta cũng được ban ơn trở thành con Thiên Chúa (GLCG 645). Một khuynh hướng thần học cho rằng Đức Maria là Mẹ của Ngôi Con và cũng là Mẹ của chúng ta nên Ngôi con là Anh của chúng ta. Những ai không quen với danh xưng Đức Giêsu là “Anh”, có lẽ sẽ dễ dàng chấp nhận lời giảng của thánh Phaolô và thánh Augustine: “Tất cả chúng ta là một trong Đức Giêsu” (Rm 12:5). Điều này xảy ra khi chúng ta nhận phép rửa (I Gio 3:1). Ngay lúc ấy Đức Maria là Mẹ của chúng ta và là Eva mới, nên cũng là mẹ loài người (GLCG 726). Giáo Hoàng Leo Cả (440-461) đã vắn tắt mầu nhiệm này như sau: “Đây là ơn vượt khỏi mọi ơn: Thiên Chúa gọi con người là con, và con người gọi Thiên Chúa là Cha”. Năm 1532, Đức Mẹ hiện ra với thánh Juan Diego tại Guadalupe, Mẹ đã nói với Diego: “Hỡi con nhỏ bé, Ta không phải là Mẹ con sao, đừng sợ hãi”. Như vậy Đức Mẹ đã công nhận Người là Mẹ nhân loại. Đức Mẹ cũng xác nhận với Diego: “Ta là Đấng Trọn Đời Đồng Trinh”.
Bài này chỉ nói đến những mô thức liên hệ đến tín điều Theotokos. Trên thực tế dù Mẹ là Đấng “Alma Mater” (Mẹ Ẩn Kín) Mẹ vẫn được nhận diện qua hằng ngàn danh xưng. Mỗi danh xưng là một mô thức riêng biệt về Mẹ và còn tiếp tục được tỏ lộ theo dòng thời gian. Thánh Louis De Montfort nói “về Mẹ Maria không bao giờ nói hết” (De Maria numquam satis).4 Chúng ta hãy chiêm niệm một vài danh hiệu để thấy rõ điều này, Mẹ là “Đức Bà Hằng Cứu Giúp”, Mẹ là “Nữ Vương Các Thánh Tử Đạo”, Mẹ là “Đấng Đồng Công Cứu Chuộc”… Duyệt xét từng danh hiệu, tất cả đều có nền tảng từ Kitô học (Christology). Nói cách khác, mọi mầu nhiệm của Mẹ Maria đều rút ra từ mầu nhiệm Chúa Giêsu. Thánh Maximiliano Kolbe nói, “Ở đâu có Mẹ thì có cả Chúa ba ngôi”.
Những biến cố xoay quanh tước hiệu Theotokos cho chúng ta thấy chỉ có Giáo Hội là nơi độc nhất biết ca ngợi Đức Mẹ một cách thích hợp, vì giáo hội có đủ tư cách dâng lên Người những lời do chính Thiên Chúa mặc khải cho biết. Cho đến nay lòng sùng kính Đức Mẹ đã là động lực phát sinh ra những dòng tư tưởng mới. Rất nhiều tu viện, trường đại học, Giáo Hoàng, hội đoàn, tu sĩ, và cá nhân đã nhận Đức Mẹ làm đấng bảo trợ. Các cuộc hiện ra của Đức Mẹ từ thế kỷ XIII đến nay như những ấn dấu chứng thực những tín điều về mầu nhiệm Theotokos là chân lý. Có thể nói ngắn gọn Theotokos là sức mạnh không thể thiếu của Giáo Hội Công Giáo và của đời sống các tín hữu. Kitô hữu chúng ta càng sùng kính Đức Mẹ bao nhiêu, chúng ta càng gần với Thiên Chúa bấy nhiêu vì Đức Mẹ mang chúng ta đến với Thiên Chúa.
Đỗ Trân Duy
___________
(1) Có lần thánh Dominic (Đa Minh) làm phép trừ quỉ ám cho một bệnh nhân. Thánh bắt ép quỉ phải tiết lộ những gì nó biết về Đức Mẹ. Quỉ đã miễn cưỡng xưng ra những đức hạnh và sự vinh hiển mà Thiên Chúa dành cho Đức Mẹ. Lời tuyên xưng công khai của quỉ làm mọi người ở hiện trường, kể cả những kẻ cứng lòng, đều cảm động chảy nước mắt.
(2) Giáo sư tiến sĩ Scott Hahn nguyên là mục sư Tin Lành. Một lần kia ông vào nhà thờ Công Giáo quan sát thánh lễ đề tìm tài liệu phê bình. Đến lúc vị linh mục dâng Mình Thánh thì ông tự thấy mình quì xuống và nhận ra thánh lễ là hình ảnh trên thiên đàng. Ông đã cải qua đạo Công Giáo và đã có những cuộc tranh luận với các đồng nghiệp cũ của ông về tín lý Đức Mẹ là Mẹ Thiên Chúa. Xin đọc thêm Scott Hahn, Hail Holy Queen. Published by Doubleday, New York. 2001.
(3) Tiến sĩ Miri Rubin, giáo sư môn lịch sử trung cổ và tiền hiện đại (medieval and early modern history) Đại học Queen Mary, London, đã có công trình bày lòng sùng kính Đức Mẹ trong lịch sử của dân Âu Châu. Xin đọc thêm Miri Rubin, Mother of God: A History of the Virgin Mary. Yale University Press, 2009.
(4) Thánh Louis De Monfort (1673-1700) nổi tiếng về lòng sùng kính Đức Mẹ Mân Côi. Năm 1907 Giáo Hoàng Clemente XI đã trao cho ngài chức vụ “cổ động viên lần chuỗi Mân Côi trên toàn thế giới”. Chính thánh là người hoàn chỉnh cách lần chuỗi Mân Côi mà chúng ta hiện có. Tác phẩm quan trọng nhất của ngài là cuốn True devotion to Mary (bản dịch tiếng Anh của linh mục Frederick Faber. Tan Books Publishers, INC.Rockford, Illinois, 1985.)
(1) Có lần thánh Dominic (Đa Minh) làm phép trừ quỉ ám cho một bệnh nhân. Thánh bắt ép quỉ phải tiết lộ những gì nó biết về Đức Mẹ. Quỉ đã miễn cưỡng xưng ra những đức hạnh và sự vinh hiển mà Thiên Chúa dành cho Đức Mẹ. Lời tuyên xưng công khai của quỉ làm mọi người ở hiện trường, kể cả những kẻ cứng lòng, đều cảm động chảy nước mắt.
(2) Giáo sư tiến sĩ Scott Hahn nguyên là mục sư Tin Lành. Một lần kia ông vào nhà thờ Công Giáo quan sát thánh lễ đề tìm tài liệu phê bình. Đến lúc vị linh mục dâng Mình Thánh thì ông tự thấy mình quì xuống và nhận ra thánh lễ là hình ảnh trên thiên đàng. Ông đã cải qua đạo Công Giáo và đã có những cuộc tranh luận với các đồng nghiệp cũ của ông về tín lý Đức Mẹ là Mẹ Thiên Chúa. Xin đọc thêm Scott Hahn, Hail Holy Queen. Published by Doubleday, New York. 2001.
(3) Tiến sĩ Miri Rubin, giáo sư môn lịch sử trung cổ và tiền hiện đại (medieval and early modern history) Đại học Queen Mary, London, đã có công trình bày lòng sùng kính Đức Mẹ trong lịch sử của dân Âu Châu. Xin đọc thêm Miri Rubin, Mother of God: A History of the Virgin Mary. Yale University Press, 2009.
(4) Thánh Louis De Monfort (1673-1700) nổi tiếng về lòng sùng kính Đức Mẹ Mân Côi. Năm 1907 Giáo Hoàng Clemente XI đã trao cho ngài chức vụ “cổ động viên lần chuỗi Mân Côi trên toàn thế giới”. Chính thánh là người hoàn chỉnh cách lần chuỗi Mân Côi mà chúng ta hiện có. Tác phẩm quan trọng nhất của ngài là cuốn True devotion to Mary (bản dịch tiếng Anh của linh mục Frederick Faber. Tan Books Publishers, INC.Rockford, Illinois, 1985.)